Friday, April 15, 2011

NGƯỜI VIỆT KHÔN HAY DẠI?

NGƯỜI VIỆT KHÔN HAY DẠI?
 
Nguyễn Hoàng Đức
Cái khôn ranh chỉ là bản năng sống rình mồi kiếm ăn của các loài thú. Chỉ có cái khôn của hiểu biết mới biến con người thành công trình sư cho số phận của mình.
LTS: Sau khi đăng tải bài viết "Người Việt có thông minh không?", Tuần Việt Nam nhận được nhiều ý kiến thảo luận, tranh cãi xung quanh chủ đề này. Để rộng đường dư luận, Tuần Việt Nam sẽ lần lượt giới thiệu các góc nhìn khác nhau. Mời bạn đọc cùng thảo luận thêm.
Người Việt có thông minh không?
"Tấm bằng tiến sĩ không làm tôi thông minh hơn..."
Một cây đàn không làm nên dàn nhạc?
Người Việt có danh từ "Lương - tri", có nghĩa là: Con người ta chỉ có lương tâm - khi đi kèm tri thức. Từ "lương tri", theo gốc Latin là Conscience - cũng có nghĩa là ý thức. Nó được các triết gia từ cổ đại đến hiện đại bàn rốt ráo rằng, người ta chỉ có thể có lương tâm khi có ý thức và hiểu biết để phân biệt được cái hay - cái dở, cái tốt - cái xấu, cái phải - cái trái. Trình độ tri thức, khôn hay dại, vì thế vô cùng quan trọng, bởi vì nó chính là trình độ của lương tâm, cái sẽ xây nên tầm vóc của xã hội.
Người Việt có thông minh không, hay chỉ khôn lỏi thôi? Mới đây, chúng ta có Giáo sư Ngô Bảo Châu đoạt giải Field thế giới về toán học, vậy thì ai dám nói là người Việt không thông minh?
Thế nhưng, vài chuyên gia đã chứng minh về cái gọi là "tâm lý đại biểu". Nghĩa là, thay vì bàn về sự thành - bại căn cứ vào bản thân mình, họ thường viện dẫn bằng tâm lý đại biểu, để nâng mình lên, rằng ở có người này người khác, ở phố kia, làng nọ, hay nước khác chẳng kém ai.


Giáo sư Ngô Bảo Châu
Xét về sự khôn - dại của người Việt ta cũng tương tự. Nếu cả nước ta lấy GS Ngô Bảo Châu ra để tự hào chính là dùng "tâm lý đại biểu" để ngụy biện cho mình. Lấy cái cố gắng, cái thông minh, cái thành công cao nhất của một con người bao phủ cho sự thiếu cố gắng, thiếu tư duy, và thiếu thành công cho bản thân mình, hay là cả dân tộc.
Đó sẽ là một niềm kiêu hãnh nguy hiểm, vì một bông hoa không làm nên vườn hoa, một người không làm nên dân tộc, và như nhạc sĩ thiên tài Shuman (1810-1853) nói: "Cái hay của âm nhạc nằm trong dàn nhạc". Nếu chúng ta chỉ cậy vào một cá nhân để tự hào, thì thay vì chúng ta có một dàn nhạc đại toàn tấu thì chúng ta chỉ có mỗi một cây đàn đang độc tấu.
Dân tộc 100 triệu người vẫn có thể là dân tộc... bé
Trước hết chúng ta hãy đưa ra một khung cảnh chung về một sự so sánh. Dân tộc Thụy Sĩ giờ đây có khoảng 5 triệu dân, cách đây gần 2 thế kỷ, lúc chỉ có khoảng vài chục vạn dân nhưng họ đã nổi tiếng về loại hình quốc hội mở ngoài trời, và có bộ não yêu sự chính xác đến mức tạo ra những chiếc đồng hồ nổi tiếng hoàn cầu.
Dân tộc Bồ Đào Nha, cách đây vài thế kỷ, cũng chỉ có khoảng vài chục vạn dân, vậy mà họ đã đóng những đoàn thuyền buồm lớn, chạy đua với Tây Ban Nha, sang tận châu Mỹ để tìm kiếm những thuộc địa mới.
Lần ngược lịch sử, các dân tộc Bắc Âu cũng vậy, vào lúc chỉ có một nhúm dân số, họ đã từng trở thành những kẻ khét tiếng chinh phục trên biển.
Còn nước Anh , cách nhiều thế kỷ, vào lúc dân số cũng lèo tèo một vài triệu, nhưng đã giong buồm đi chinh phục khắp thế giới với 1 khẩu hiệu ngạo nghễ rằng "Mặt trời không bao giờ lặn trên Vương quốc Anh".



Thụy Sĩ nổi tiếng là nước sản xuất đồng hồ hàng đầu thế giới

Ở ngay cạnh nước Việt, có Campuchia, dân số bằng 1/ 10 nước ta, nhưng lại có công trình Angkor Wat, một quần thể kiến trúc kỳ vĩ và đồ sộ hàng đầu thế giới. Công trình này có lẽ được xây dựng vào lúc dân số của họ chỉ đếm tới hàng vạn. Còn Việt Nam thì sao?
Theo số liệu mới nhất, nước Việt Nam hiện đang đứng thứ 12 về dân số, như vậy là sắp lọt vào "top ten". Rõ ràng chúng ta không nhỏ, trái lại còn là một cường quốc về dân số. Nhưng phẩm chất dân số thì sao? Theo các đánh giá về tri thức, giáo dục, nhân bản, xã hội, pháp luật, hay kinh tế... chúng ta còn nằm ở mức rất thấp, gần sát đáy của nửa cuối các dân tộc trong các bảng xếp hạng.
Tại sao nước ta lớn vậy, mà nhìn chung vẫn thấy vô vàn các điều bất cập, nhếch nhác, nghèo hèn, lộn xộn? Tất cả điều đó chắc chắn là sản phẩm của bộ não, tức ý thức, tức trí khôn, chứ không phải sản phẩm của cơ thể - tức da thịt.

Tư tưởng bao giờ cũng dẫn đến hành động. Tư tưởng chưa trau dồi lớn, làm sao có hành động lớn? Đó rõ ràng là bằng chứng về việc chúng ta là nước đông dân mà không phải là nước lớn. Bởi vì người lớn, nước lớn thì phải có suy nghĩ lớn, những dự định lớn, những chương trình vĩ mô. Nhưng ngay từ trong tư tưởng chúng ta chưa lớn, nên không thể nào sản sinh cái lớn được.

Tại sao dân số nước Việt ngót trăm triệu người vẫn là dân tộc bé? Chúng ta hãy tham khảo cái nhìn hết sức chính xác của lãnh tụ Tôn Trung Sơn, trong cuốn "Chủ nghĩa tam dân". Ông nói: "Trung Quốc là một nước hơn 400 triệu dân (thời đầu thế kỷ 20) nhưng mà như một bãi cát rời rạc, bởi vì ở Trung Quốc chỉ có gia tộc và tông tộc mà không có quốc tộc". Khi đó, quốc gia chỉ là thứ gia đình được trải rộng dài, kéo dài ra. Nó là một đơn vị gia đình phồng lên, với các "gia quy", chứ không phải là một quốc thể với hệ thống lập hiến của mình....
Không có trí tuệ thì mỗi người chỉ là em bé to xác, không thể nào trưởng thành. Thân xác là thứ càng lớn càng giật lùi, như Lão Tử ở Trung Quốc đã ví: Đứa bé mới đẻ nắm tay chặt đến mức ngay cả người lớn cũng không kéo ra được, nhưng càng lớn đứa bé càng già và yếu. Bản năng không bao giờ tiến bộ! Chỉ có lý trí và trí tuệ mới tiến bộ được.
Một con người không phát triển trí tuệ không lớn lên, một dân tộc không dựa trên trí tuệ thì mãi mãi còn bé nhỏ. Triết gia Hegel , ông tổ của môn biện chứng pháp đã xác định: "Những tư tưởng dẫn dắt thế giới". Một dân tộc không có những tư tưởng thì sẽ như những toa tầu không có đầu tầu.
Tư duy bé nên làm ăn cò con
Mà tư tưởng của người ta lớn lên như thế nào? Triết học phương Tây xác định rằng: Trí tuệ chỉ có mỗi một con đường thể hiện, đó là ngôn ngữ. Anh muốn khoe khéo khoe khôn ư? Muốn trình bày lý thuyết hay phát minh của mình ư? Anh phải có công trình được viết ra, đọc lên, hay công bố.
Người ta dứt khoát rằng: Cái gì không nói ra miệng được thì không phải là trí tuệ. Đừng ấp úng, gật gật, rồi bảo mình khôn hơn hay có nhiều công trình trong đầu hơn người khác. Làm gì có thứ nhạc sĩ không có bản nhạc! Họa sĩ không có tranh! Nhà chế tạo không có phát minh?!
Nhưng ngôn ngữ lớn lên bằng cái gì? Bằng cách cọ xát bằng đối thoại. Một cầu thủ không thể tiến bộ nếu không trải qua thi đấu! Ngôn ngữ cũng như trí tuệ của người ta cũng không thể tiến bộ nếu không được đối thoại. Trong Kinh Thánh có câu "Ở đâu không có bàn định thì không có mưu sâu". Đó là điều chắc chắn, vì tất cả những ban tham mưu trên đời hình thành là để người ta bàn định tìm kiếm những giải pháp tốt nhất.
Người Việt cũng xác định đẳng cấp cao nhất phải hướng đến công lý của ngôn ngữ như: "Khôn ngoan đến cửa quan mới biết". Nhưng trong đời sống, vì hám theo đuổi tính vụ lợi hơn chân lý, người Việt thường áp dụng: "Người khôn ăn nói nửa chừng/ Làm cho kẻ dại nửa mừng nửa lo".
Rồi người ta hướng đến sự khôn ranh: "Khôn ăn người, dại người ăn". Hoặc tìm cách nói nước đôi để bảo toàn lấy mình: "Làm trai cứ nước hai mà nói". Dẫn đến "quan tám cũng ừ, quan tư cũng gật".
Tại sao người Việt lại có lối sống, lối thể hiện, cũng là tìm cách che giấu nước đôi như vậy? Đó là sự khiếp nhược vì sống quá lâu trong chế độ phong kiến. Sợ nói không đúng thì không phải đầu cũng phải tai, nên thà nói nước đôi để chuồn bề nào cũng tiện. Đó cũng là lối nói của mặc cảm "nô tài".



Dân tộc 100 triệu người vẫn có thể là dân tộc... bé

Nói nước đôi thì có thể bảo toàn mình, nhưng không cách gì tiến bộ được, vì nói nước đôi là cách chưa nói gì.
Tư tưởng bao giờ cũng dẫn đến hành động. Tư tưởng chưa trau dồi lớn, làm sao có hành động lớn? Đó rõ ràng là bằng chứng về việc chúng ta là nước đông dân mà không phải là nước lớn. Bởi vì người lớn, nước lớn thì phải có suy nghĩ lớn, những dự định lớn, những chương trình vĩ mô. Nhưng ngay từ trong tư tưởng chúng ta chưa lớn, nên không thể nào sản sinh cái lớn được.
Nước chúng ta là tam nông: Nông thôn, nông nghiệp, nông dân. Vì tư duy bé nên chúng ta làm ăn cò con. Vì ít thực phẩm nên chúng ta thường ăn vặt, dẫn đến khôn vặt, rồi có cả gian vặt nữa. Từ đặc điểm tam nông, chúng ta còn mắc các chứng: Tiểu nông, tiểu trí, và tiểu xảo.
Có một mệnh đề là, nếu người Việt thông minh thì chắc hẳn chúng ta đã có tầm vóc của một quốc gia hùng cường, nhưng rõ ràng chúng ta còn đang yếu về rất nhiều mặt. Rõ ràng đa số chúng ta mới khôn vặt, khôn trốn việc, khôn láu cá ăn người, chứ không phải cái khôn ngoan di sơn đảo hải như người Việt mong muốn và ao ước "có cứng mới đứng đầu gió". Trái lại đa số chúng ta chỉ muốn làm cỏ giả để tìm nơi khuất gió. Cái khôn ranh chỉ là bản năng sống rình mồi kiếm ăn của các loài thú. Chỉ có cái khôn của hiểu biết mới biến con người thành công trình sư cho số phận của mình. Rỏ ràng người Việt chúng ta vốn không thông minh mà cũng chẵng khôn ngoan gì cả, nếu có thông minh và khôn ngoan như nhiều người vẫn tưởng thì hẵn cả dân tộc chúng ta đã không phải chị họa cọng sản suốt ngàn ấy năm giời và còn không biết phải sống với cái thảm họa ấy đến bao giờ nữa..... Không nhìn kỹ những gì cộng sản làm mà cứ nhắm mắt đưa chân tin những gì cộng sản nói thì quả là một dân tộc quá ư đần độn và dại dột

 

NGUYỄN PHÚC BẢO ÂN

Vào thượng tuần tháng 11 vừa qua, Cộng Hòa Liên Bang Đức cùng các quốc gia Đông Âu thuộc phe Xã Hội Chủ Nghĩa trước đây và nhiều nước thuộc thế giới tự do khác đã tưng bừng kỷ niệm tròn 20 năm ngày bức tường Bá Linh sụp đổ tạo ra hiệu ứng DOMINO đã kéo theo sự sụp đổ hoàn toàn của hệ thống XHCN, giải phóng hoàn toàn nhân dân các nước Cộng Hòa thuộc Liên Bang Xô Viết cũ và nhân dân cả khối Đông Âu khỏi ách cộng sản do Lenin, Stalin và các lãnh tụ của quốc tế cộng sản áp đặt lên trên các dân tộc bị trị này kể từ sau cuộc cách mạng tháng 10 -1917, và nền độc tài cộng sản trị được áp đặt lên thêm nhiều hơn các dân tộc Đông Âu kể từ sau Thế chiến thứ hai kết thúc năm 1945.

Trong lịch sử của nhân loại, chưa bao giờ nhân dân các nước Đông Âu và Liên Xô cũ cảm nhận được niềm hạnh phúc lớn lao đến vậy: Sau hơn ba thế hệ con người sống trong sự kìm kẹp vô hình của đế quốc ma quái – evil empire – của Liên Xô. Sau gần 3 phần 4 thế kỷ đối với nhân dân các nước Cộng Hòa thuộc Liên Bang Xô Viết và sau non nữa thế kỷ đối với các quốc gia khác thuộc Đông Âu con người ta sống trong một bầu không khí ngột ngạt, đè nén bởi nền chuyên chế được áp đặt lên trêm mọi sinh hoạt của đời sống họ, kể cả trên tư tưởng của họ. Rồi người Đức trên khắp lãnh thổ phía Đông bổng vở òa trong niềm hạnh phúc bất tận khi lúng túng trả lời câu hỏi của một số phóng viên quốc tế về hiệu lực của quyết định liên quan đến quyền tự do đi lại của người dân Đông Đức, ông Gunter Schabowski đã buột miệng nói rằng quyết định này “có hiệu lực ngay lập tức” và tất nhiên hòa quyện với những nổi vui mừng, và niềm hạnh phúc bất tận của toàn dân Đông Đức là một bầu không khí hân hoan đón nhận nền tự do, dân chủ cũng bao trùm cả nước Đức và lan tỏa dần đến các nước láng giềng. Đối với nhân loại trên toàn cầu, sự sụp đổ của chế độ cộng sản là một hệ quả tất yếu của học thuyết Engel, Karl Marx và Lenin về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản bởi toàn bộ nền tảng của các học thuyết này được xây dựng hoàn toàn bằng những sự bao biện khiên cưỡng và trái ngược với quy luật phát triển tự nhiên của xã hội và của con người: Hai bản năng gốc của con người là sở hữu và tiêu diệt, nhưng Engel, Karl Marx và Lenin đã phủ nhận thực tế này bằng những lý luận khập khiểng về việc xóa bỏ chế độ tư hữu nhằm xây dựng một chế độ xã hội loài người hoàn hảo giống như xã hội loài ong, loài kiến, thật hết sức hoang đường!


Khác với người dân Đông Đức và các dân tộc Đông Âu, sự kiện sụp đổ của bức tường bá Linh kéo theo sự sụp đổ của Liên Bang Xô Viết và các nước cộng sản ở Đông Âu được người Việt nam trong nước đón nhận với ít nhất là hai chiều suy nghĩ khác nhau: Đối với người dân, từ trong Nam, ngoài Bắc, mọi người trông chờ một điều kỳ diệu tương tự sớm xãy ra với nước Việt nam và buồn thay đã không có một điều kỳ diệu nào xãy ra tương tự cho người Việt nam cả, bởi “FREEDOM IS NOT FREE”: Vâng, “TỰ DO KHÔNG PHẢI TỰ NHIÊN MÀ CÓ”. Đối với tập đoàn lãnh đạo đảng và nhà nước cộng sản Việt nam, lúc bấy giờ họ căng thẳng, họ lo sơ cho sự sụp đổ của thiên đường XHCN như một quy luật tất yếu đã diễn ra vào thời điểm đó tại Đông Âu, hình ảnh của người đồng chí Erich Honecker, lãnh tụ vĩ đại của Đông Đức một thời “oanh liệt” lúc bấy giờ phải trốn sang Liên Xô xin tỵ nạn tự do và công lý đã khiến cả bộ chính trị trung ương đảng cộng sản Việt nam vô cùng khiếp sợ, hình ảnh đồng chí Nicolae Ceausescu, lãnh tụ vĩ đại một thời của nhân dân Romania anh hùng bị đưa ra trước tòa án công lý và bị kết án tử hình, bởi những tội ác vô cùng dã man tàn bạo đối với dân tộc Romania trong suốt những năm cầm quyền càng khiến cho các lãnh tụ của cộng sản Việt nam khiếp sợ.

Để kịp thời ngăn chặn sự sụp đổ của chế độ cộng sản Việt nam, nhằm tiếp tục duy trì quyền thống trị đất nước để tiếp tục khai thác triệt để những đặc quyền đặc lợi của những nhà chuyên chế đại tư sản, bên cạnh việc tăng cường các biện pháp an ninh để chống “diễn biến hòa bình” (Bởi chủ trương của công sản là diễn biến chiến tranh thôi) bằng những cuộc bắt bớ, giam cầm, quản thúc và ngay cả thủ tiêu những nhân vật có tư tưởng cấp tiến như Trần Độ, Trần Xuân Bách, Dương Thu Hương, Lưu Quang Vũ… đảng và nhà nước cộng sản Việt nam còn liên tục tổ chức các khóa học tập chính trị để “quán triệt nghị quyết, chủ trương đường lối của đảng, xác định lập trường kiên định theo chủ nghĩa Mác-Lê Nin và đưa đất nước Việt nam tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mà Bác Hồ đã lựa chọn.”

Dẫu có một thời lầm lạc trong cái thiên đường mù XHCN đó, nhưng sau thời điểm 09 tháng 11 năm 1989 đa phần người Việt trong nước, đặc biệt là giới trí thức, và ngay cả những lãnh tụ của cộng sản Việt nam đã nhận thức được rằng không thể có một xã hội XHCN hay CSCN theo học thuyết của Karl Marx và Lenin, nơi mà con người ta “làm theo năng lực và hưởng theo nhu cầu”, ngay cả những người nông dân chân lấm tay bùn cũng không thể tin rằng có một xã hội XHCN, nơi mà con người không cần bất cứ một sự hưởng thụ nào, ngoài niềm vui lớn lao nhất của họ là được lao động, được làm nô lệ, như đàn ong thợ, kiến thợ, để cho riêng tập đoàn ong kiến đực và ong kiến chúa hưởng thụ, bởi con ong cái kiến chỉ sống chủ yếu bằng bản năng, còn con người chúng ta lại sống thiên về bằng lý trí. Kiên định theo con đường XHCN là các lãnh tụ của đảng cộng sản muốn biến con người Việt chúng ta thành loài ong, loài kiến, nghĩa là không được sống bằng lý trí mà phải thay vào đó bằng bản năng!

Sau thời điểm 09 thánh 11 năm 1989, từ thằng dân ngu cu đen cho đến các lãnh tụ của cộng sản Việt nam đều biết rằng con đường đi lên CNXH và chủ nghĩa cộng sản thực chất chỉ là con đường phát triển từ chủ nghĩa TƯ BẢN lên chủ nghĩa TƯ BẢN, nghĩa là một đường tròn khép kín mà đường kính quá lớn nên khi đang đi trên đó người ta cứ ngỡ là đang đi trên một đường thẳng, và nhiên liệu cho cổ máy chế độ được vận hành trên đường tròn khép kín với đường kính quá lớn đó không phải là xăng dầu mà chính là mồ hôi, nước mắt, là máu xương, là sinh mạng của đồng bào, của hàng triệu người dân ngu cu đen thấp cổ bé họng.

Giai cấp lãnh đạo của CSVN cố bám víu cái lấy cái học thuyết Mác-Lê bởi đó là cái phao cứu sinh cho ngai quyền lực của họ, bởi cũng phát xuất từ học thuyết này là chuyên chính vô sản, là sử dụng bạo lực cách mạng để tiêu diệt các thế lực phản cách mạng. Các nhà lãnh đạo CSVN vì muốn đặt quyền lợi của cá nhân, của giai cấp lên trên quyền lợi của dân tộc mà kiên định “xây dựng nên kinh tế thị trường theo định hướng XHCN” nghĩa là họ quyết tâm đưa đất nước Việt nam tiếp tục đi trên một con đường được xây dựng bằng mồ hôi nước mắt và máu xường của đồng bào, một con đương vòng từ chủ nghĩa TƯ BẢN lên chủ nghĩa TƯ BẢN, bở vì họ khiếp nhược khi nhìn thấy Erich Honecker phải đi tỵ nạn công lý và cũng vì họ không muốn trở thành Nicolae Ceausescu của Việt nam.

Đối với người dân Việt nam, chắc chắn ai cũng muốn được hít thở bầu không khí tự do, được quyền biểu lộ tình cảm của mình trước cái yêu, cái ghét, mà nhân loại gọi là BIỂU TÌNH, chắc chắm ai cũng khát khao được tự do bày tỏ chính kiến của mình, hay tự do lựa chọn người đại diện cho mình để điều hành đất nước, nhưng than ôi! Cũng vì quá khiếp nhược trước bạo quyền mà cả 80 triệu người dân Việt, dù khát khao khát vọng tự do và dân chủ đến mấy cũng đành ngồi đó chờ điều kỳ diệu xãy đến như thể chờ sung rụng.

Hỡi vị nào đó trong số 15 vị trong bộ chính trị, hãy vì quyền sống, quyền làm người của hơn 86 triệu người dân Việt, hãy vì sự hưng vong của nòi giống, hãy đặt quyền lợi của dân tộc lên trên quyền lợi của cá nhân và giai cấp, mà làm một Mikhaïl Gorbachev, một Boris Yeltsin của Việt nam, hãy giải tán đảng cộng sản Việt nam, hãy giải tán chính phủ nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, hãy giải tán ngành công an và an ninh-cái dùi cui của cộng sản Việt nam… rồi những trang sử vàng của Viêt tộc sẽ lưu danh quý vị muôn thuở. Dân Việt vốn tính hiếu sinh, sẽ không hành hình quý vị như người Romania đã hành hình nhà độc tài Nicolae Ceausescu. Người Việt Quốc gia vốn tính hiếu hòa, sẽ không có bất cứ trại tập trung cải tạo nào dành cho quý vị hay thuộc cấp của quý vị.

Hỡi 80 triệu đồng bào Việt nam yêu quý, hỡi các sỹ phu đất Việt hãy vì tiền đồ của dân tộc, hãy mau mau đứng lên đáp lời sông núi, hãy là những Ronald Reagan của Việt nam, hãy đến trước quãng trường Ba Đình, mắt dõi về tòa nhà quốc hội của cộng sản Việt nam mà kêu gọi: “Hỡi ông tổng bí thư Nông Đức Mạnh, hỡi ông Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng, hỡi ông chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết! Nếu các ông tìm kiếm sự thịnh vượng cho đất nước Việt nam, nếu các ông đang tìm kiếm tự do cho dân tộc Việt nam, xin hãy đến tại quảng trường này, Các ông Nông Đức Mạnh, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Minh Triết, hãy phá nát lăng của Hồ Chí Minh, thành trì cuối cùng của cộng sản Việt nam, hãy phá tan những bức tường lửa ngăn không cho người dân Việt được tiếp cận với nguồn thông tin đa chiều, hãy chặt gãy hết gông cùm đang xiềng trói cả dân tộc Việt nam không cho họ được hưởng bất cứ một quyền tự do căn bản nào mà Thượng Đế đã ban cho họ”.

Chủ nghĩa cộng sản đã hoàn toàn phá sản! Chế độ cộng sản đã sụp đổ ngay trên cái nôi sản sinh ra nó đã 20 năm rồi! Cũng đã một thế hệ người Đông Âu không còn sống dưới ách cai trị của cộng sản nữa bởi thượng đế đã thương ban cho họ một Đức Giáo Hoàng Jean-Paul II, một Mikhaïl Gorbachev, một Boris Yeltsin và Thương Đế cũng đã sinh ra họ là những dân tộc không chấp nhận sống nhục sống hèn.

Đâu rồi một Việt nam quê hương ngạo nghễ? Đâu rồi triệu trái tim của triệu khối kiêu hùng, đâu rồi những cháu con của Bà Trưng, Bà Triệu? Đâu rồi những hậu duệ của Hưng Đạo, của Lê Lợi, Quang Trung? Sao cứ mãi khiếp nhược để chịu kiếp sống nhục sống hèn? Hay mọi người đang còn say ngủ? Hởi Quốc Dân! Dậy! Dậy Dậy!

Huế, những ngày mưa bão năm 2010
Nguyễn Phúc Bảo Ân

VÁ LẠI CƠ ĐỒ CỦA TỔ TIÊN


Góp Nhặt mãnh tim để vá trời
Vá mãnh cơ đồ rách tả tơi
Vá hồn dân tộc đang quằn quại
Vá nỗi đau thương đến ngập trời

Ta vá giang san vá mãnh đời
Cho dầu  thịt nát với xương rơi
Cho dầu bão táp đang vần vũ
Vá mãnh hồn ta đang tã tơi

Dẫu cảnh can qua đến ngất trời
Thăng trầm ơi hỡi vận nước tôi
Gieo neo sóng dữ con thuyền nhỏ
Ta nguyện vá trời giữa biển khơi

Chí sỹ đâu rồi chí sỹ ơi !
Nam quan cộng sản bán mất rồi
Hoàng sa giặc chiếm còn đâu nữa
Cờ vàng ta vá lại đi thôi

Lê Chân

 
Ải Nam Quan Xưa


 

No comments:

Post a Comment

Note: Only a member of this blog may post a comment.